Thứ Bảy, 31 tháng 10, 2009

Thi đậu...!!!


Hoàng Tổ trưởng Tổ 4 vừa báo tin cả lớp đều hoàn thành kỳ thi tốt nghiệp mà không có ai phải thi lại cả, công nhận các bạn "hênh" thiệt, lạc đề nhưng mà trúng tủ phải không các bạn. Nói chung là "học tài thi phận mà" Phải không các bạn...!!!

Thứ Tư, 21 tháng 10, 2009

THI "MỘT MÌNH MỘT NGỰA"

Ảnh Hòa nông dân chụp lúc các bạn đang thi môn Quan hệ quốc tế ngày 21/10/2009

Mình chơi Tennis xong 6 giờ, và đến trường lúc 6 giờ 30 đã có các bạn đến rồi sau mà sơm thế mình định đi sơm nhất để làm người đầu tiên nhưng ko kip rồi, Sau khi sinh hoạt tại Hội trường chính và bốc thăm trúng đề đóng thuộc lĩnh vực CNXHKH thấy anh em buồn nhưng ko sao! chuyển sang phòng thi MỘT BÀN MỘT NGƯỜI mình ngồi vào số báo danh số 23 khác số 24 trước mình thi hết môn sau khi ổn đinh và thầy giám thị đọc Đề thi:theo Ph.Angghen đã viết: " Để giải phóng chọ họ, Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại...". Bằng lý luận và thực tiển đ/c hãy phân tích luận điểm trên...,mình quan sát thấy cả phòng thi sao mà im lặng đáng sợ! vì đã qua 1 giờ rồi mà thấy các bạn xung quanh chưa viết được môt trang nào cả, mình thì chuẩn bị bố cục làm căn cứ để viết cho dể nhớ, một là viết khai niện trước nhưng mà không nhớ hết chỉ biết công nhân là người lao động làm thuê cho nhà tư bản, đại diện cho PTSX mới có khả năng tiếp thu và ưng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, là giai cấp triệt để cách mang nhất.....V..V..; vị trí; vai trò; đặc điểm; nội dung về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ...sau 2 tiếng đồng hồ mà mình chỉ viết được 2 trang giấy, cứ xoay quanh vấn đề theo hình thái kinh tế của xã hội phát triển của loài người đó là PTSX và trong PTSX có LLSX và QHSX và bên trên nó là KTTT và trong LLSX thì có GCCC là giai cấp đại diện cho PTSX, là giai cấp có khả năng làm nên sứ mệnh lịch sử....cuối cùng cũng xong 4 trang giấy, nhưng khi nộp bài mình lại quên phân thực tiển úi chu cha thật là ngu ghê đây là phần dể viết nhất mà mình cứ lại đi sâu vào phần lý luận, đúng là bệnh giao điều, bệnh chủ quan duy ý chí, thực tiển mà không có là lý luận suông rồi...5 điểm thôi cha..!!!...công viết đủ 4 trang cho thêm 1 điểm nữa 6 điểm được chưa...Ê! như vậy là đạt mục tiêu đặt ra rồi, xin cam ơn.!!!Chúc các bạn cũng đạt điểm như vậy không ai rớt hết là được rồi phải không các bạn, học thi phận mà...!!!đúng hôn...!!!
VAI TRÒ VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN VÀ ĐẢNG CSVN
1. Vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, C. Mác đã phát hiện ra vai trò lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh cách mạng xóa bỏ chế độ tư bản và xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Trong cuộc đấu tranh cách mạng vì sứ mệnh lịch sử đó, giai cấp công nhân chuyển từ giai cấp "tự mình" thành giai cấp "vì mình", phong trào công nhân phát triển từ tự phát đến tự giác khi tổ chức ra đội tiên phong của mình - các Đảng Cộng sản (có thể với những tên gọi khác nhau ở những nước khác nhau, đôi khi ngay trong một nước).
Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga đầu thế kỷ XX đã mở ra thời đại quá độ của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tiếp đó là sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới vào giữa thế kỷ XX. Hệ thống này đã ảnh hưởng tích cực đến đời sống nhân loại trong nhiều thập niên sau. Điều đó chứng minh cho phát hiện đúng đắn của C.Mác về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XX, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước và sự thoái trào của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã dẫn đến việc xét lại vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và thời đại quá độ của xã hội loài người lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tôi cho rằng, trong tình hình hiện nay, chúng ta cần tiếp tục khẳng định luận điểm của C.Mác về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, nhưng cũng cần có tư duy mới về giai cấp công nhân. Bởi vì, trong mấy trăm năm, kể từ khi giai cấp công nhân ra đời đến nay, xã hội loài người trải qua biết bao biến cố to lớn, cả những bước ngoặt có tính thời đại, như Cách mạng Tháng Mười Nga và sự phát triển của văn minh nhân loại từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Chủ nghĩa tư bản không còn là chủ nghĩa tư bản cổ điển mà đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản hiện đại. Giai cấp công nhân cũng thay đổi rất nhiều, khác hẳn giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX, từng được Ph.Ăng-ghen mô tả trong tác phẩm "Tình cảnh giai cấp công nhân Anh".
Như chúng ta đã biết, những luận điểm của C. Mác về giai cấp công nhân được đưa ra trong điều kiện của văn minh công nghiệp. Những thành tựu mới của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại từ giữa thế kỷ XX, tiếp đó là cuộc cách mạng tin học, đã dần dần đưa nhân loại từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt chưa từng có của lực lượng sản xuất trong lịch sử nhân loại. Do vậy, tư duy mới về giai cấp công nhân phải là tư duy về giai cấp công nhân trong điều kiện của văn minh trí tuệ.
Quan điểm xuất phát nêu trên có căn cứ khoa học từ chủ nghĩa Mác hay thuộc loại quan điểm tư sản "duy lực lượng sản xuất"? Ai cũng biết, luận điểm của C. Mác về sự gắn bó giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất khác hẳn luận điểm còn phiến diện trước đó chỉ thấy hoặc nhấn mạnh một chiều vai trò của lực lượng sản xuất. C.Mác luôn luôn khẳng định vai trò quyết định của lực lượng sản xuất trong mối quan hệ với quan hệ sản xuất. Ông cho rằng, sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác nhất thiết phải trải qua đấu tranh cách mạng của những giai cấp cách mạng, nhưng nhân tố quyết định nhất vẫn là bước nhảy vọt mới về chất của lực lượng sản xuất. Ông từng nói đại ý: máy hơi nước đẻ ra nhà tư bản. Nhân đây tôi muốn nói thêm, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do nhiều nguyên nhân trực tiếp, nhưng nguồn gốc sâu xa là sự lạc hậu, bất cập của chủ nghĩa xã hội mô hình cũ và của ban lãnh đạo ở các nước này trước sự phát triển mới của văn minh nhân loại.
2 - Những thành tựu của chủ nghĩa tư bản, nhất là của chủ nghĩa tư bản hiện đại, gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp, rồi từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Đến nay, những thành tựu đó đã làm thay đổi rất nhiều chế độ tư bản, giai cấp tư sản, giai cấp công nhân và các tầng lớp dân cư trong hầu hết các quốc gia - dân tộc.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ dần dần làm thay đổi căn bản cơ cấu các ngành nghề kinh tế - kỹ thuật, và từ đó, hình thành dần một giai cấp công nhân mới, rõ nhất là ở các nước tư bản phát triển. Cơ cấu GDP của các nước tư bản phát triển không còn như trước đây, mà đã thay đổi hẳn theo hướng: ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng ngày càng lớn, đến 60%, ngành công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 30% - 40%, ngành nông nghiệp chỉ chiếm 2%. Về cơ cấu giai cấp công nhân, từ năm 1961 đến năm 1968, ở Anh, công nhân công nghiệp giảm 44%, ở Pháp giảm 30%, ở Thụy Sĩ giảm 24%, ở Cộng hòa liên bang Đức giảm 18% (1).
Nói đến giai cấp công nhân trước đây, chúng ta thường nghĩ nhiều đến những người lao động chân tay hơn là những người lao động trí óc; chủ yếu nói đến công nhân "áo xanh", ít nói đến công nhân "áo vàng" (kỹ thuật viên); còn công nhân "áo trắng" hay "công nhân cổ cồn" (kỹ sư) thì cho rằng, họ thuộc tầng lớp công nhân quý tộc, gắn bó chặt chẽ với giai cấp tư sản và là cơ sở xã hội của chủ nghĩa cải lương trong phong trào công nhân. Ngày nay, đã xuất hiện và phát triển ngày càng nhiều lực lượng công nhân được trí thức hóa, những công nhân "áo vàng" và công nhân "áo trắng", trong khi lực lượng công nhân "áo xanh" ngày càng giảm dần, như ở Mỹ, năm 2000 chỉ còn 10%. ở một số nước, công nhân có trình độ đại học chiếm đến 80%.
Ngày nay, những thành tựu của cách mạng tin học - tin học hóa đã mở rộng ra phạm vi toàn cầu và dẫn đến sự ra đời của "internet hóa". Điều quan trọng là, những thành tựu của cách mạng tin học ngày càng xâm nhập sâu vào mọi hoạt động của đời sống xã hội, nhất là trong sản xuất, kinh doanh, làm hình thành dần kinh tế tri thức. Những thành tựu đó đánh dấu một giai đoạn mới của cách mạng tin học và bắt đầu mở ra kỷ nguyên thông tin. Vai trò của khoa học - công nghệ, của lao động trí óc đối với phát triển kinh tế, xã hội ngày càng tăng; khoa học - công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đúng như tiên đoán của C.Mác.
Tình hình đó khiến cho một số nhà tư tưởng tư sản vội đưa ra luận điểm "quyền lực thuộc về trí tuệ" để che đậy bản chất của vấn đề. Thực chất, quyền lực vẫn thuộc về tư bản. Vì vậy, cần nhắc lại: nói đổi mới tư duy về giai cấp công nhân, nói về giai cấp công nhân trong điều kiện của văn minh trí tuệ, chính là nhằm làm rõ khả năng và yêu cầu của giai cấp công nhân hiện đại trong sứ mệnh lịch sử xóa bỏ và vượt qua chủ nghĩa tư bản hiện đại, thiết lập chủ nghĩa xã hội hiện đại. Như vậy, tư duy mới về giai cấp công nhân hiện đại gắn liền với tư duy mới về chủ nghĩa xã hội hiện đại.
Đương nhiên, vẫn có sự phát triển không đều giữa các nền kinh tế của các nước. Xét về tổng thể, loài người vẫn đang quá độ từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ, nghĩa là quá trình công nghiệp hóa còn đang diễn ra. Ở các nước phát triển, đã kết thúc giai đoạn công nghiệp hóa cổ điển, chuyển sang giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại và tiếp cận ngày càng sâu văn minh trí tuệ (có thể hay không coi quá trình kết thúc của công nghiệp hóa hiện đại cũng là sự khởi đầu của văn minh trí tuệ). Còn ở những nước chậm và đang phát triển, quá trình công nghiệp hóa diễn ra có phần còn trong giai đoạn công nghiệp hóa cổ điển, đồng thời tiếp cận dần giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại và một số thành tựu của kỷ nguyên tin học, của văn minh trí tuệ. Tất nhiên, cơ cấu các ngành nghề kinh tế - kỹ thuật và tình hình giai cấp công nhân ở những nước này không giống ở những nước phát triển.
Ở nước ta, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, qua mấy chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến hành chiến tranh giành độc lập hoàn toàn, thống nhất đất nước và tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cả nước, nền kinh tế căn bản vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp, nhiều phần lạc hậu, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội có được xây dựng bước đầu nhưng chưa được bao nhiêu. Trong sự nghiệp đổi mới, sau khi thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Theo chủ trương của Đảng, đến năm 2020, nước ta mới căn bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Xét về quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, nước ta còn đang trong cuộc cách mạng công nghiệp, có phần còn ở giai đoạn công nghiệp hóa cổ điển, nhưng cố gắng "đi tắt, đón đầu", tiến vào giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại và tiếp cận kỷ nguyên thông tin, bước đầu xây dựng kinh tế tri thức. Cơ cấu ngành nghề kinh tế - kỹ thuật dần dần có sự chuyển đổi theo hướng: tăng dần dịch vụ và công nghiệp, thu hẹp dần nông nghiệp. Hiện nay, lao động nông nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP cả nước; đến năm 2020, có thể giảm xuống còn 10% (đương nhiên, giá trị tuyệt đối vẫn tăng), có nghĩa là khi đó dịch vụ và công nghiệp có thể lên tới 80% - 90%(2). Điểm đáng chú ý là, những thành tựu của cách mạng tin học đang xâm nhập nhiều vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế, nhất là các lĩnh vực bưu chính - viễn thông, ngân hàng, hàng không, nông nghiệp, dịch vụ. Công nghệ thông tin đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ tăng trưởng hằng năm vào loại cao nhất và đóng góp ngày càng nhiều vào GDP cả nước. Từ đó, dần dần hình thành một cơ cấu đội ngũ lao động và công nhân mới ở nước ta.
Nghiên cứu sự phát triển của cách mạng tin học, của lao động trí óc trong điều kiện của kỷ nguyên thông tin, của kinh tế tri thức, đã có ý kiến về sự xuất hiện những "công nhân tri thức" (knowledge labour) trong văn minh trí tuệ và phân biệt những công nhân này với những "công nhân trí thức" (intellectual labour) trong văn minh công nghiệp (3). Có lẽ nên dịch "knowledge labour" là "lao động tri thức", còn "intellectual labour" là "lao động trí óc". Sự phân biệt giữa "công nhân tri thức" và "công nhân trí thức" có thể làm rõ sự phát triển mới của công nhân trong kinh tế tri thức. Nhưng có lẽ cả "lao động tri thức", "lao động trí óc", cùng một bộ phận tầng lớp trí thức gia nhập hàng ngũ giai cấp công nhân và bộ phận lao động chân tay (còn chiếm tỷ trọng lớn, nhất là ở nông thôn) dần dần được đào tạo theo yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ ngày càng phát triển trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận cách mạng thông tin. Tất cả các lực lượng lao động đó hợp thành một quá trình lịch sử trí thức hóa giai cấp công nhân, đưa giai cấp công nhân ở nước ta từng bước trở thành giai cấp công nhân của văn minh trí tuệ. Đó cũng là quá trình "trí thức hóa công nông" và "công nông hóa trí thức", như dự đoán thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3 - Trong "Phê phán Cương lĩnh Gô-ta", C. Mác đã đưa ra luận điểm: một khi lao động được giải phóng thì tất cả mọi người đều trở thành công nhân. Chắc ai cũng hiểu, nói lao động được giải phóng ở đây, trước hết là được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột. Nhưng tôi nghĩ, nên hiểu thêm là, được giải phóng khỏi lao động cơ bắp, nặng nhọc, chuyển dần sang lao động trí óc là chính; cả hai công cuộc giải phóng đó phải hỗ trợ và tạo điều kiện cho nhau, thống nhất với nhau. Đó chính là sự thống nhất và tác động qua lại một cách biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mà lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định. Như vậy cũng có nghĩa là, khi ấy giai cấp công nhân sẽ không còn tồn tại như một giai cấp riêng nữa, mà dần dần hòa mình vào dân tộc trong một hình thái kinh tế - xã hội mới thay thế chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Quá trình giải phóng lao động, tiến tới "tất cả mọi người đều trở thành công nhân" đang diễn ra từng bước ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại, cuối cùng cũng phải trải qua đấu tranh cách mạng dưới hình thức này hay hình thức khác. Quá trình đó cũng đang diễn ra ở nhiều nước đang phát triển như nước ta, khi biết tiếp cận nhanh chóng những thành tựu mới nhất của khoa học - công nghệ, phát triển kinh tế tri thức trong văn minh trí tuệ, gắn liền với việc xử lý đúng đắn những vấn đề về quan hệ sản xuất, hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn.
4 - Giai cấp cách mạng muốn trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng thì, về mặt khách quan, phải đại biểu cho phương thức sản xuất mới, và về mặt chủ quan, phải tổ chức ra đội tiên phong - chính đảng, của giai cấp mình. Đội tiên phong của giai cấp phải là bộ phận trí tuệ nhất, tiêu biểu cho trí tuệ của giai cấp và thời đại. Điều đó đúng với các giai cấp cách mạng trước đây cũng như với giai cấp công nhân ngày nay. Cần lưu ý thêm, điều đó dễ dẫn đến sự ngộ nhận rằng, lãnh đạo cách mạng phải là các tầng lớp trí thức chứ không phải là các giai cấp cách mạng trong lịch sử. ở đây không nói đến động cơ chính trị của những người muốn cắm "tấm biển chỉ đường của trí tuệ" để bác bỏ vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, phủ nhận yêu cầu trí tuệ của đội tiên phong là rất sai lầm. Đội tiên phong - chính đảng của giai cấp cách mạng, là bộ phận lao động trí thức đặc biệt của giai cấp đó chứ không phải là tầng lớp trí thức nói chung trong xã hội.
Đội tiên phong của giai cấp công nhân hiện đại nhất thiết phải là bộ phận trí tuệ nhất của giai cấp, của thời đại mới. Phải tiếp cận những thành tựu mới nhất của văn minh nhân loại, kết hợp với sự phân tích khoa học, trên cơ sở của phép biện chứng mác-xít, những điều kiện của thế giới ngày nay đang chịu sự tác động của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Từ đó, đề ra cương lĩnh, chiến lược, sách lược phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của quốc gia - dân tộc để từng bước tìm con đường giải phóng, vượt qua chủ nghĩa tư bản hiện đại, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện đại.
Trong thời đại ngày nay, bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản vẫn chỉ có thể là bản chất giai cấp của giai cấp công nhân; cơ sở chính trị - xã hội chủ yếu của Đảng Cộng sản phải là giai cấp công nhân trong quá trình phát triển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ; tư duy mới về giai cấp công nhân phải gắn liền với tư duy mới về chủ nghĩa xã hội hiện đại. Có thể nói, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự lạc hậu, bất cập trước đây của Đảng Cộng sản ở một số nước tư bản phát triển là do không nhận thức được điều này. Bởi vậy, ở đó, Đảng Cộng sản dần dần mất cơ sở chính trị - xã hội cần có của mình, gắn liền với những cương lĩnh ngày càng xa rời cuộc sống. Giai cấp công nhân hiện đại, nhân dân lao động không thấy được con đường đi tới một xã hội tốt đẹp hơn, mà đôi khi mất phương hướng và dường như kỳ vọng vào một tương lai nào đó trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại, khi ở đó xuất hiện và phát triển dần một số yếu tố của xã hội mới, nhưng đội tiên phong của giai cấp công nhân hiện đại đã không nhận ra để làm sinh sôi nảy nở.
Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, là Đảng của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Bởi nhiều lẽ: Đảng là con đẻ của hai phong trào: phong trào công nhân và phong trào yêu nước (chứ không chỉ là con đẻ của phong trào công nhân như ở những nước tư bản). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong đó đặt nhiệm vụ dân tộc lên trên và lên trước, coi nhiệm vụ dân tộc là tiền đề, điều kiện tiên quyết và là cơ sở để hoàn thành nhiệm vụ giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng động viên sức mạnh toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, coi cách mạng xã hội chủ nghĩa không chỉ là nhiệm vụ giai cấp mà còn là nhiệm vụ dân tộc, định hướng cho nhiệm vụ dân tộc, bảo đảm độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc triệt để, đưa dân tộc bỏ qua thời đại dân tộc tư sản, tiến vào thời đại dân tộc xã hội chủ nghĩa.
Là Đảng của giai cấp công nhân, trước hết Đảng phải hiểu giai cấp công nhân và dựa vào giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay đã thay đổi rất nhiều (như trên đã phân tích), đang phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, phát triển trong sự phân hóa thường xuyên - một sự phân hóa tích cực. Đó là sự phân hóa trong cơ cấu ngành nghề kinh tế - kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất; trong cơ cấu thành phần kinh tế, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất; trong phân công lao động xã hội.
Nhận thức đúng bản chất và xu thế phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay, trên cơ sở đó, có chủ trương, chính sách thích hợp để tiếp tục mở rộng đội ngũ và nâng cao chất lượng giai cấp công nhân, khiến cho nó xứng đáng với vai trò lãnh đạo trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện đại, đó là yêu cầu đầu tiên và cũng là quan trọng nhất của đội tiên phong. Chúng ta thường nói, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp của giai cấp công nhân. Vậy bản chất đó là gì? Nó có phải là cái gì trừu tượng và bất biến không? Hay phải có những nội dung và yêu cầu cụ thể nhằm thể hiện bản chất đó? Trong bản chất đó, cái gì không thể thay đổi và cái gì cần phải phát triển? Không thể nói giữ vững và tăng cường được bản chất của giai cấp công nhân khi không hoàn thành những nhiệm vụ chính trị, kinh tế có tính chất thực tiễn cách mạng của nó.
Là Đảng của dân tộc, Đảng phải hiểu sâu sắc dân tộc mình, từ quá khứ, hiện tại đến tương lai, cũng như lịch sử, đất nước, con người và đặc biệt là bản sắc văn hóa, bởi bản sắc văn hóa là đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc. Đảng phải tổ chức, động viên và phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, của tất cả các dân tộc họp thành đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Phải đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội, tìm tòi, thể nghiệm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện đại mang bản sắc dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chủ nghĩa xã hội phải được ăn sâu, bám rễ trong lòng dân tộc, đưa dân tộc Việt Nam đi vào thời đại dân tộc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đảng phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày càng đi sâu vào toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa.
Là Đảng cầm quyền, Đảng phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ, nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân.
Ngày hôm sau các thầy cô lại cho bốc thăm nhưng lại thấy có một đề duy nhất đó là đề mở thuộc lĩnh vực Quan hệ quốc tế, nên mình thấy ai cũng nhẹ nhỏm vì được xem tài liệu....MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG VÀ TÍCH CỰC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Sự nghiệp Đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam ngày nay được cộng đồng quốc tế nhìn nhận là một nước hòa bình, ổn định, phát triển năng động ở khu vực và có một vị thế mới trên trường quốc tế. Có thể nói, chúng ta đang ở trong giai đoạn rất quan trọng trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển đất nước.
Trên lĩnh vực đối ngoại, chúng ta đã thực hiện có hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế và hoàn thành một bước quan trọng nhiệm vụ do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đề ra là tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc Đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm "chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả". Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới. Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội.
Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người. Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam.
Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình Dương... Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy, sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn định và minh bạch. Cải thiện môi trường đầu tư; thu hút các nguồn vốn FDI, ODA, đầu tư gián tiếp, tín dụng thương mại và các nguồn vốn khác. Xác định đúng mục tiêu sử dụng và đẩy nhanh việc giải ngân nguồn vốn ODA, cải tiến phương thức quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng và có kế hoạch trả nợ đúng hạn; duy trì tỉ lệ vay nợ nước ngoài hợp lý, an toàn.
Phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, phát triển thị trường mới, sản phẩm mới và thương hiệu mới. Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài.
Đẩy mạnh công tác văn hoá - thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước.
Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vững vàng về chính trị, có trình độ ngoại ngữ và năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt.
Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại với sự tham gia và phát huy trí tuệ của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại; đối ngoại, quốc phòng và an ninh; thông tin đối ngoại và thông tin trong nước.
(trích Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng)

Thứ Tư, 14 tháng 10, 2009

15 CÂU HỎI ÔN THI TRIẾT HỌC CƠ BẢN

Câu 1: Quan điểm CT - XH của Nho gia ở Trung Hoa cổ đại. Sự khác nhau trong đường lối chính trị của Nho gia, Đạo gia và Pháp gia.
1. Quan điểm CT - XH của Nho gia ở Trung Hoa cổ đại
- Nho gia là một trong những trường phái triết học chính của Trung Hoa cổ đại. Phái Nho gia được Khổng Tử sáng lập, Mạnh Tử phát triển về phía duy tâm tiên nghiệm và Tuân Tử phát triển về phía duy vật.
v Quan điểm CT - XH của Khổng Tử:
Khổng Tử là người sáng lập ra đạo Nho, ông được phong là “Chí thánh tiên sư, Vạn thế sư biểu”, nghĩa là thầy, thánh của muôn đời, muôn nhà.
Khổng Tử coi XH là tổng hợp các mối quan hệ giữa người với người, trong đó có các quan hệ như: Vua-tôi, Cha-con, Chồng-vợ, Anh-em, Bạn bè. Năm mối quan hệ này về sau được phái Nho gia gọi là Ngũ luân, trong đó 3 mối quan hệ Vua-tôi, Cha-con, Chồng-vợ là những mối quan hệ cơ bản nhất và được gọi là Tam cương.
Những phạm trù cơ bản trong thuyết Chính trị - Đạo đức của Khổng Tử là Nhân, Lễ, Nghĩa và Chính danh:
- Nhân: là lòng thương người. Người có nhân là người có đạo đức hoàn toàn. Trung và Thứ là hai khía cạnh của Nhân: Trung là tính ngay thẳng với người, điều mình muốn thì hãy làm cho người; Thứ là lòng vị tha, điều mình không muốn thì đừng làm cho người. Trong đạo nhân, hiếu là gốc - hiếu không chỉ thể hiện ở việc phụng dưỡng cha mẹ mà quan trọng nhất là lòng thành kính. Khổng Tử nói: “Nuôi cha mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật”.
-Lễ: là hình thức thể hiện lòng nhân. Lễ bao gồm mối quan hệ rộng lớn, từ quan hệ thần linh đến quan hệ ứng xử giữa người với người, quan hệ đạo dức, phong tục, tập quán, quan hệ nhà nước, luật pháp … Tuân theo lễ là một điều kiện để thực hiện nhân đức. Người quân tử không bao giờ làm trái với lễ.
- Nghĩa: là hành vi đạo đức thể hiện đức nhân. Người làm việc nghĩa thì hy sinh lợi ích của mình vì người khác. Nghĩa và lợi không thể dung hợp với nhau. Khổng Tử nói: “Quân tử biết rõ về nghĩa, tiểu nhân biết rõ về lợi”.
- Chính danh: có nghĩa là phải bố trí người ở cương vị phù hợp với năng lực, người ở cương vị nào thì phải xứng đáng với cương vị đó, phải làm đúng danh phận, chức trách của mình “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”. Nói và làm không được vượt chính danh:
+ Khổng Tử đề cao người hiền tài với tư tưởng Thượng hiền và khuyên các nhà cai trị nên sử dụng người hiền tài quản lý đất nước và loại bỏ dần những kẻ bất tài trong bộ máy cai trị.
+ Phải thực hiện ba điều: thực túc, binh cường, dân tín.
+ Ông khuyên giai cấp thống trị phải thương yêu, tôn trọng chăm lo nhân dân. Đồng thời ông khuyên dân phải an phận, lấy nghèo làm vui, nghèo không oán trách

+ Tuy nhiên những kế sách chính trị của ông chỉ dừng lại ở tính chất cải lương và duy tâm chứ không phải phải bằng cách mạng hiện thực (hạn chế).

v Quan điểm CT - XH của Mạnh Tử:

Tư tưởng về CT - XH của Mạnh Tử thể hiện ở triết lý nhân sinh (triết lý về cuộc đời) mà trung tâm là học thuyết về tính thiện. Ông nói: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Tính thiện của con người có ở 4 đức tính lớn vốn có bẩm sinh, đó là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí và chúng bắt nguồn từ tứ đoan:

- Ai sinh ra cũng có lòng thương xót nên phải lấy Nhân mà cảm hoá.
- Ai sinh ra cũng có lòng ghen ghét nên phải lấy Nghĩa mà điều chỉnh.
- Ai sinh ra cũng cung kính nên phải lấy Lễ mà giáo hoá.
- Ai sinh ra cũng biết phải trái nên phải lấy Trí mà phân biệt đúng sai.

Tính thiện của con người vốn bắt nguồn từ cái tâm do trời phú để cho con người ta biết suy nghĩ, phân biệt phải trái đúng sai để ứng xử với con người và vạn vật.

Dựa trên thuyết tính thiện và tư tưởng đức trị của Khổng Tử, Mạnh Tử đưa ra thuyết “Nhân chính”, tức là cái trị là chính, phải vì nhân chứ không phải vì lợi. Chủ trương của thuyết này là lấy đức để thu phục lòng người, phản đối việc cai trị bằng bạo lực.
Trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa và chủ trương nhân chính, Mạnh Tử đã đề ra một quan điểm rất độc đáo đó là dân bản. Ông coi dân là quan trọng nhất, kế đến là giang sơn xã tắc, vua là thường thôi “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Và ông giải thích là có dân mới lập nên nước, có nước mới lập nên vua, chứ vua không thể sinh ra dân. Quan hệ vua tôi là quan hệ hai chiều, tôn trọng lẫn nhau.
Tóm lại, triết học của Mạnh Tử tuy còn mang yếu tố duy tâm và thần bí (hạn chế) nhưng trong học thuyết về CT-XH với tư tưởng “nhân chính”, “dân bản” có ý nghĩa tiến bộ, phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của lịch sử XH
v Quan điểm CT - XH của Tuân Tử:
Tuân Tử là người phát triển học thuyết của Khổng Tử, đề cao nhân, nghĩa, lễ nhạc và chính danh. Tuy nhiên, ông phản đối quan niệm của Khổng Tử và Mạnh Tử về những vấn đề chính trị và đạo đức. Tuân Tử đứng trên quan điểm duy vật và vô thần (tích cực), ông cho rằng tự nhiên gồm 3 bộ phận: trời, đất và người. Trời chỉ là một bộ phận của tự nhiên, bản thân tự nhiên là cơ sở hình thành và biến hoá của vạn vật. Như vậy, trời không quyết định vận mệnh của con người, con người là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên. Việc trị hay loạn, lành hay dữ là do con người làm ra chứ không phải tại trời. Nếu con người hành động thuận với lẽ tự nhiên thì lành, trái lại sẽ gặp loạn “Lấy sự trị mà đối phó với đạo thì lành, lấy sự loạn mà đối phó với đạo ấy thì dữ”.
Không chỉ hành động phù hợp với tự nhiên mà con người có thể cải tạo tự nhiên và XH để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Ông phê phán mê tín dị đoan, việc tôn thờ trời, ỷ lại trời, khuyên con người nên tin ở sức mình, ra sức phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm, ăn ở điều độ, giữ gìn sức khoẻ thì trời sẽ không để cho nghèo khó và bệnh tật.
Về đạo đức ông đưa ra thuyết tính ác cho nên ông chủ trương sửa trị việc nước, giáo dục đạo đức, lễ nghĩa làm cho XH tiến bộ, văn minh hơn. Ông đề cao “lễ trị”, ông cho rằng lễ nghĩa và đẳng cấp trong XH là cần thiết để duy trì trật tự XH.
2. Sự khác nhau trong đường lối chính trị của Nho gia, Đạo gia và Pháp gia
Nho gia Đạo gia Pháp gia
Đường lối chính trị: “đức trị” hay “nhân trị”
Coi trọng giáo dục, phản đối bạo lực và chiến tranh.
Khổng Tử coi XH là tổng hợp các mối quan hệ giữa người với người, đó là Ngũ luân và Tam cương.
Các phạm trù cơ bản trong học thuyết của Khổng Tử là Nhân-Nghĩa-Lễ-Chính danh:
- Đường lối nhân trị của Khổng Tử có tính chất điều hòa mâu thuẫn giai cấp, phản đối đấu tranh. Ông khuyên giai cấp thống trị phải thương yêu, tôn trọng, chăm lo cho nhân dân. Đồng thời, ông cũng khuyên dân phải an phận, lấy nghèo làm vui, nghèo mà không oán trách. Ông coi việc oán trách cảnh nghèo hèn, ưa dùng bạo lực là mầm mống của loạn. Tuy nhiên những kế sách chính trị của ông chỉ dừng lại ở tính chất cải lương và duy tâm chứ không phải phải bằng cách mạng hiện thực Đường lối chính trị: sử dụng học thuyết “vô vi”, có nghĩa là sống, hoạt động theo lẽ tự nhiên, thần phái, không làm trái với tự nhiên, không can thiệp vào trật tự của tự nhiên, chỉ làm cho dân no bụng, xương cốt mạnh mà lòng hư tĩnh, khiến cho dân không biết, không muốn.
- Không dùng luật pháp, không cần giáo dục nhân, lễ, nghĩa, trí.
- Lão Tử chủ trương hạn chế quyền lực của Nhà nước và hoạt động của dân đến mức tối đa, để cho dân sống chất phác thời nguyên thủy, duy trì tình trạng nước nhỏ, dân ít. Đường lối chính trị: Hàn Phi chủ trương đường lối “pháp trị”. Để cai trị XH cần phải có 3 yếu tố là Pháp, Thuật và Thế:
- Pháp là pháp luật, được công bố cbo mọi người biết, để tuân theo và phải thay đổi cho phù hợp với tình hình cụ thể vì không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng với mọi thời đại
- Thế là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu.
- Thuật là phương pháp mưu trí, thủ đoạn trong việc trị dân.

Câu 2: Bản thể luận và nhân sinh quan của Phật giáo Ấn Độ cổ đại

Phật giáo là một trường phái Triết học Tôn giáo, người sáng lập ra đạo Phật là Thích ca Mâu ni.

Bản thể luận: thể hiện trong 4 nguyên lý:
Ø Vô tạo giả: đạo Phật cho rằng vũ trụ là vô thủy, vô chung, vạn vật trong thế giới chỉ là dòng biến hoá vô thường, vô định, không do một vị thần nào sáng tạo nên cả. Phật giáo cho rằng thế giới tồn tại khách quan, không do thần thánh sáng tạo ra.
Ø Vô ngã: có nghĩa là không có linh hồn bất tử, sự vật hiện tượng xung quanh ta và chính bản thân ta là không có thật mà nó được tạo thành từ các yếu tố mà Phật gọi là Danh và Sắc. Danh là tinh thần, Sắc là vật chất. Thế giới do các yếu tố vật chất và tinh thần kết hợp lại với nhau tạo nên.
Ø Vô thường: có nghĩa là không có gì ổn định, bất biến. Phật khẳng định rằng thế giới khách quan không có gì là vĩnh hằng, bất biến mà cái gì cũng có quá trình sinh thành, biến đổi và tiêu vong theo luật Nhân - quả mà Phật gọi là Sinh, Trụ, Dị, Diệt, từ sự vật nhỏ nhất cho đến vũ trụ đều tuân thủ luật trên.
Ø Nhân quả tương tục: Phật khẳng định rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng trên đời đều có nguyên nhân của nó. Nhân kết hợp với duyên thì sinh ra quả, quả lại kết hợp với duyên lại biến thành nhân và sinh ra quả khác. Nhân và quả tạo thành một chuỗi không ngừng nghỉ, Phật gọi là “Nhân quả tương tục vô gián đoạn"
v Nhân sinh quan: Phật giáo tuy bác bỏ Brahman và atman nhưng lại kế thừa thuyết luân hồi, nghiệp báo trong đạo Balamôn. Thích ca Mâu ni đã đưa ra thuyết “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên” để giải thoát chúng sinh ra khỏi mọi nỗi khổ và kiếp nghiệp báo, luân hồi. Đây là tư tưởng triết lý nhân sinh quan chủ yếu của đạo Phật. “Tứ diệu đế” là bốn chân lý vĩnh hằng, thiêng liêng, cao cả, đúng đắn gồm có: Khổ đế, Nhân đế, Diệt đế và Đạo đế.
Khổ đế: Phật cho rằng đời là bể khổ vì vậy ta chỉ dạy các con một điều là khổ và diệt khổ” và các nỗi khổ của con người thể hiện trong Bát khổ.
Nhân đế (Tập đế): Phật giáo giải thích nguyên nhân mọi nỗi khổ của con người. Phật khẳng định rằng tất cả mọi nỗi khổ của con người đều có nguyên nhân của nó. Các nguyên nhân của nỗi khổ được thể hiện qua “Thập nhị nhân duyên” (12 nỗi khổ của con người).
Diệt đế: Phật nói khi con người ta tìm ra được nguyên nhân của nỗi khổ theo Thập nhị nhân duyên thì Phật khẳng định rằng con người có thể từ bỏ tận gốc mọi nỗi khổ và chỉ có như thế con người mới đến được cõi Niết bàn. Do vậy, Phật cho rằng cái khổ có thể tiêu diệt được.
Đạo đế: Phật nói chúng sinh có thể tiêu diệt được nỗi khổ nếu đi theo con đường “Bát chính đạo.

V. Nhận xét:
- Ưu điểm:
+ Là trường phái triết học vô thần (chống lại Brahman và không thừa nhận atman) mặc dù không triệt để, có yếu tố duy vật biện chứng, thừa nhận có sự vận động tuyệt đối của các sự vật hiện tượng.
+ Chống lại sự phân biệt đẳng cấp, chủ trương bình đẳng xã hội.
+ Triết lý của đạo Phật có ý nghĩa giáo dục rất lớn vì nó khuyên con người khinh ghét những ham muốn dục vọng vật chất tầm thường.
+ Đạo Phật có tính nhân đạo cao bởi vì nó khuyên con người suy nghĩ và làm điều thiện, tránh xa điều ác, thương yêu cứu giúp mọi người. Không dùng bạo lực trong quan hệ giữa các giáo phái khác nhau cũng như tôn giáo khác nhau.
- Nhược điểm:
+ Phật giáo là trường phái duy tâm chủ quan trong quan niệm về XH bởi vì nó cho rằng nguyên nhân cơ bản của mọi nỗi khổ là do vô minh do đó Phật giáo cho rằng sự sáng suốt, giác ngộ của con người là yếu tố quyết định sự giải thoát con người khỏi cái khổ.
+ Chưa nhận thấy được sự đứng yên tương đối của các sự vật hiện tượng
+ Phật giáo chủ trương giải thoát con người bằng phép tu thân, tích đức tiêu cực, xa lánh cuộc đời mà không mang phong trào cách mạng XH, phủ nhận sự biến đổi cải tạo XH bằng thực tiễn cách mạng.
+ Phật giáo theo trường phái nhận thức luận duy tâm, nhận thức chỉ thực hiện bằng sự tu luyện, thiền định. Không thừa nhận vai trò của nhận thức cảm tính và tư duy cũng như via trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức.
+ Phật giáo cho rằng cuộc đời là giả, ảo, mọi ham muốn đời thường đều là tội lỗi. Tuy nhiên, Niết bàn - cái mà Phật cho là thực tại thì hóa ra chỉ là điều tưởng tượng thuần túy, không có gì làm bằng chứng.

Câu 3: Những nội dung cơ bản của tư tưởng triết học Việt Nam
Trả lời :
Triết học Việt nam chịu ảnh hưởng của các tư tưởng triết học trường phái Nho ga, Đạo gia và đặc biệt là đạo Phật.
1. Về bản thể luận:
Chủ nghĩa duy tâm và tư tưởng tôn giáo là tư tưởng thống trị trong xã hội Việt Nam. Tư tưởng duy tâm thể hiện ở việc vào số mệnh, nghiệp, kiếp; coi mệnh trời quyết định sự thành bại của con người: “Mưu sự tại nhân thành sự tại thiên”.
Bên cạnh tư tưởng mệnh trời cũng có tư tưởng đề cao vai trò con người hơn mệnh trời: “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”.
Có quan điểm coi trọng thời, thế hơn mệnh.

Các quan điểm duy vật lẻ tẻ, không thành hệ thống thường xuyên phản kháng lại quan điểm duy tâm:
- Bác bỏ nguồn gốc thần thánh và vai trò quyết định của vua
- Vạch trần thực chất của tệ mê tín bói toán
- Vạch trần sự giả trá của thầy bói, địa lý
2. Quan điểm chính trị-xã hội
+ Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
+ Yêu nước là phẩm chất cao quý nhất, đứng hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần Việt Nam.
+ Yêu nước là trách nhiệm của mọi người không phân biệt đẳng cấp, giới tính.
+ Tôn kính, thờ cúng những người anh hùng dân tộc, những người có công dựng nước, xây dựng làng xã ...
+ Khinh ghét những kẻ phản quốc, như Lê Chiêu Thống, Trần ích Tắc
+ Tư tưởng về độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia
- Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, ngang hàng với Trung quốc.
- Tư tưởng tự hào về nguồn gốc dân tộc (Huyền thoại ‘Con rồng, cháu tiên”)
- Chăm lo xây dựng nhà nước độc lập, luôn luôn giữ vững địa vị của một nhà nước độc lập
- Giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, phong tục, tập quán, chống lại âm mưu đồng hóa của Trung quốc. (Tư tưởng của Nguyễn Huệ, đánh cho dài tóc, đánh để răng đen).
+ Vấn đề động lực và phương thức giành và bảo vệ độc lập dân tộc
- Đại đoàn kết toàn dân tộc. Truyền thuyết “đồng bào” (cùng một bọc) nói lên tình đoàn kết dân tộc, không phân biệt chủng tộc của tất cả các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.

- Quan hệ vua-tôi, nhà nước và nhân dân: Vua tôi đồng lòng, quân dân hợp sức. Khoan thứ sức dân để làm kế bền gốc sâu rễ (Trần Hưng Đạo)
- Toàn dân kháng chiến, trường kỳ kháng chiến, lấy ít đánh nhiều, lấy nhỏ thắng lớn. Phát huy vai trò trò của địa thế và các phương tiện đánh giặc, giữ nước.
- Vừa đánh bại ý chí xâm lược, vừa mở đường cho giặc rút khỏi nước ta. Thực hiện đường lối ngoại giao mềm dẽo, khôn khéo để giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.
3. Quan niệm về đạo làm người
+ Chủ nghĩa nhân đạo Việt Nam
- Thương yêu, giúp đỡ mọi người. “Thương người như thể thương thân”. “Chị ngã em nâng”. “Miếng khi đói gói khi no”. “Lá lành đùm lá rách”...
- Tình thương yêu, gắn bó giữa các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.
- Lòng nhân đạo khoan dung đối với những người lầm đường lạc lối đã ăn năn hối cải. Đối xử nhân đạo với kẻ thù đã đầu hàng: “Đánh người chạy đi, không đánh người chạy lại”.
- Lối sống nặng tình nghĩa, coi trọng đạo lý. Hiếu thảo với cha mẹ. Thờ cúng tổ tiên. Chăm sóc phần mộ tổ tiên. Thương yêu con cháu, ít phân biệt nam nữ.
- Giữ vững lối sống trong sạch:
+ Quan niệm về đạo làm người trong Nho gia, Đạo gia với những khái niệm “Tam cương”, “Ngũ luân”, Ngũ thường”, “Nhân”.
+ Quan niệm đạo đức Phật giáo với lòng “từ bi”, “cứu khổ, cứu nạn” ...cũng ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống tinh thần của người Việt Nam
Tóm lại tư tưởng triết học Việt Nam là tư tưởng yêu nước, độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Tư tưởng này thể hiện ở lòng quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia, xây dựng một nhà nước vững mạnh, chăm lo đời sống nhân dân. Tư tưởng này còn thể hiện ở lòng tự hào về nguồn gốc dân tộc, tự hào về truyền thống dân tộc, tôn kính những người anh hùng dân tộc, những người có công bảo vệ, xây dựng đất nước, quê hương, khinh ghét những kẻ phản quốc.
Ngoài ra, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc, tư tưởng về đạo làm người, tư tưởng khoan dung với người lầm đường lạc lối và với kẻ thù đã chịu thất bại hoặc đầu hàng cũng góp phần làm nên tầm vóc vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
Câu 4: Sự đối lập giữa quan điểm duy tâm và duy vật, biện chứng và siêu hình trong triết học Hy Lạp cổ đại (về bản thể luận, nhận thức luận, quan điểm CT-XH giữa Đêmôcrit và Platon; triết học Hêraclit và phái Elê …)
Trả lời :
-Về bản thể luận:
+ Democrit đứng trên lập trường duy vật vô thần, ông cho rằng khởi nguyên của thế giới là nguyên tử, là dạng vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được nữa, nó là cơ sở của thế giới, của sự vật hiện tượng. Nguyên tử này không màu, không mùi, không vị, không nóng, không lạnh, nó không khác nhau về chất, nó chỉ khác nhau về hình dáng, về cấu tạo, về tư thế sắp xếp và các nguyên tử này luôn luôn vận động trong chân không. Các sự vật hiện tượng khác nhau là do sự liên kết giữa các nguyên tử có hình dáng khác nhau, tư thế khác nhau, cấu tạo khác nhau. Các nguyên tử vận động không ngừng và chính sự đa dạng của các nguyên tử tạo nên sự đa dạng của thế giới sự vật và sự hình thành của vũ trụ
+ Đối lập với Democrit, Platon đứng trên lập trường duy tâm, ông khẳng định rằng bản nguyên của thế giới là “thế giới ý niệm”, thế giới ý niệm tồn tại một cách chân thật, vĩnh cửu và bất biến. Ông chia thế giới thành hai bộ phận là thế giới ý niệm và thế giới vật cảm tính. Thế giới ý niệm là thế giới có trước và sinh ra thế giới vật cảm tính. Thế giới vật cảm tính là thế giới không chân thật, không đúng đắn và luôn luôn thay đổi, là thế giới có sau và là cái bóng của thế giới ý niệm.
- Về con người:
Đêmôcrit bác bỏ quan niệm thần thánh sinh ra con người. Ông cho rằng con người xuất hiện trên trái đất là kết quả của sự tiến hóa tự nhiên và linh hồn được cấu tạo từ nguyên tử.
Platon thì cho rằng con người gồm thể xác và linh hồn tồn tại độc lập với nhau. Trong đó thể xác được tạo thành từ đất, nước, lủa và không khí còn linh hồn do Thượng đế tạo ra và nó là bất tử, tồn tại vĩnh hằng.
- Về nhận thức luận:
+ Democrit chia nhận thức thành hai dạng: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính là dạng nhận thức mờ tối, do giác quan đem lại. Nhận thức lý tính là dạng nhận thức thông qua những phán đoán logic, là dạng trí tuệ. Ông đã thấy được mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính và ông chỉ ra phải bằng nhận thức lý tính thì con người mới phát hiện được nguyên tử tức là nguồn gốc của thế giới
+ Do Platon cho rằng nhận thức cảm tính có sau nhận thức lý tính nên ông cho rằng nhận thức là sự hồi tưởng của linh hồn về thế giới ý niệm có trước vật chất. Ông cho rằng nhận thức cảm tính chỉ là sự nhận thức cái bóng của ý niệm, chỉ cho ta những quan niệm, chứ không phải là tri thức chân thực. Chỉ có nhận thức lý tính, tức nhận thức khái niệm mới đạt đến tri thức chân thực.
- Về chính trị:
+ Democrit đứng trên lập trường của phái chủ nô dân chủ, ông vẫn coi chế độ nô lệ là hợp lý, chống lại đường lối Platon.
+ Trong khi đó Platon đưa ra học thuyết về một nhà nước lý tưởng, đó là nhà nước cộng hòa bao gồm 3 đẳng cấp: nhà triết học làm vua, vệ binh bảo vệ đất nước và người lao động sản xuất.
- So sánh quan điểm giữa biện chứng và siêu hình trong triết học Hêraclit và phái Elê

Triết học Hêraclit cho rằng khởi nguyên của vũ trụ là lửa và lửa đã sinh ra vạn vật. Ông cũng cho rằng vạn vật không ngừng biến đổi như dòng chảy. Và ông thừa nhận sự tồn tại phổ biến của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng. Chính nhờ sự đấu tranh giữa các mâu thuẫn đó mới có hiện tượng sự vật này chết đi và sự vật khác ra đời nên vũ trụ thường xuyên biến đổi.

Ngược lại trường phái Elê lại cho rằng thế giới là một khối chung nhất bất động không do thần thánh sinh ra.

Câu 5: Quan điểm triết học của các nhà triết học Tây Âu Trung cổ (Về quan hệ giữa triết học và tôn giáo, về vấn đề bản thể luận, nhận thức luận con người và xã hội).
Trả lời: Xã hội Tây Âu từ thế kỷ IV - XV là xã hội phong kiến. Thiên chúa giáo trở thành tôn giáo chính thống và cùng với thế lực phong kiến trở thành lực lượng thống trị xã hội. Triết học trong thời kỳ này chịu sự chi phối và thống trị của tôn giáo và thần học. Triết học trở thành tôi tớ của tôn giáo.
Về quan hệ giữa triết học và tôn giáo các nhà triết học giai đoạn này đề cao vai trò niềm tin tôn giáo so với lý trí. Chẳng hạn Tômat Đacanh cho rằng đối tượng của triết học là chân lý của lý trí, đối tượng của thần học là chân lý của niềm tin và niềm tin cao hơn lý trí. Còn Đơnxcôt lại cho rằng đối tượng của thần học là thượng đế, đối tượng của triết học là tự nhiên. Vì vậy các nhà triết học thời kỳ này đã đưa thần học đặt niềm tin lên trên hết, đề cao niềm tin hơn lý trí và khoa học phải phục tùng tôn giáo.
Về bản thể luận các nhà triết học cho rằng Thượng đế sáng tạo ra thế giới và quyết định mọi trật tự trong tự nhiên và xã hội, là cơ sở của tri thức và đạo đức con người. Tômat Đacanh cho rằng mọi trật tự trong tự nhiên, từ sự vật không có linh hồn đến con người rồi đến thần thánh và sau cùng là Chúa trời đều do Thượng đế sắp xếp. Mọi cái trong tự nhiên và xã hội đều có mục đích do Thượng đế an bày, mọi đẳng cấp trong xã hội đều do Thượng đế quy định.
Về nhận thức áp dụng học thuyết về hình dạng của Arixtôt, ông chia hình dạng thành hình dạng cảm tính và hình dạng lý tính, trong đó hình dạng lý tính cao hơn hình dạng cảm tính.

Về con người và xã hội theo quan điểm thần học các nhà triết học cho rằng con người là thực thể yếu đuối, do Thượng đế tạo ra và có tự do trong giới hạn tiền định của Thượng đế. Vì vậy cuộc sống trần gian là tạm bợ, tội lỗi chỉ có cuộc sống vĩnh cửu ở thế giới bên kia. Mục đích của nó là để bảo vệ quyền lực tối cao của nhà thờ hay của nhà vua, giai cấp thống trị.

Câu 6: Những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa duy vật Tây Âu thế kỷ 17-18

Thời kỳ Phục hưng là thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản, là thời kỳ của những cuộc cách mạng tư sản. Trong giai đoạn này sự phát triển của lực lượng sản xuất mới làm quan hệ sản xuất phong kiến trở nên lỗi thời và mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt hơn. Đồng thời đây là thời kỳ phát triển mạnh của khoa học kỹ thuật, khoa học tự nhiên có bước tiến nhảy vọt đặc biệt là cơ học. Tất cả cái đó làm tiền đề cho sự phát triển triết học với nhiều thành tựu và hạn chế như sau:
+ Thành tựu:
- Về bản thể luận, các nhà triết học đứng trên lập trường duy vật vô thần, chống lại thế giới quan duy tâm, tôn giáo của Nhà thờ. Họ khẳng định vật chất, tự nhiên là thực thể duy nhất, Thượng đế cũng chính là giới tự nhiên. "Trong vũ trụ chỉ có một thực thể - cả con người lẫn động vật đó là vật chất" (Đ. Diđơrô). Họ cũng thừa nhận vật chất luôn luôn vận động bao gồm cả đứng im hay vận động tương đối. Và quá trình vận động do nguyên nhân bên trong của vật chất, từ đó làm tiền thân cho thuyết tiến hóa sau này.
- Về con người: Con người là sản phẩm của tự nhiên, là thể thống nhất giữa cơ thể và ý thức. Họ bác bỏ linh hồn bất tử, linh hồn tách rời cơ thể. Đ.Diđơrô quan niệm về linh hồn tách rời cơ thể cũng vô lý như: “có thể nhìn mà không cần mắt, có thể nghe mà không cần tai….” Theo họ, nhân cách con người là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục.
- Về nhận thức: Các nhà triết học duy vật chia nhận thức thành nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Trong đó cảm tính là giai đoạn thứ nhất của nhận thức, lý tính là giai đoạn thứ hai nhận thức và giai đoạn kết hợp chúng dùng thực nghiệm khoa học để kiểm tra.
- Về chính trị-xã hội: Họ chống lại tư tưởng và trật tự phong kiến, tuyên truyền tư tưởng chính trị của giai cấp tư sản. Họ đề cao hình thức nhà nước dân chủ; chống quyền lực phong kiến và Nhà thờ.
- Về vấn đề tôn giáo, họ vạch trần bản chất tôn giáo và tính chất phản động, phản tiến bộ của nó. Theo Hôpxơ nguồn gốc của tôn giáo là sự sợ hãi và ngu dốt của quần chúng. Theo họ, không phải tôn giáo sáng tạo ra con người mà chính con người sáng tạo ra tôn giáo.
+ Hạn chế:

- Về bản thể luận: do chịu ảnh hưởng của cơ học Newtơn nên thế giới quan của họ nhìn chung là siêu hình và máy móc. Họ chỉ nhìn nhận vận động ở hình thức vận động cơ giới.
- Về con người: họ chưa thoát khỏi cách nhìn máy móc về con người, coi con ngưới như một cái máy, lấy quy luật cơ học hay lấy yếu tố bản năng để giái thích bản chất con người.
- Về nhận thức: các nhà triết học duy vật đề cao vai trò nhận thức cảm tính, của tư duy và thực nghiệm khoa học, chưa nhận thức được tầm quan trọng của thực tiễn, mối liên hệ giữa nhận thức và thực tiễn.
- Về chính trị-xã hội: họ cho rằng nhà nước là do sự thỏa thuận giữa các tầng lớp nhân dân lập ra. Họ chưa nhận ra được bản chất của nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị.
- Về tôn giáo: họ chỉ thấy nguồn gốc nhận thức, chưa thấy được nguồn gốc xã hội của tôn giáo. Vì vậy họ chủ trương xóa bỏ tôn giáo bằng cách giáo dục quần chúng và tiêu diệt giới tu hành

Câu 7: Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực dụng
a) Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh ( đại biểu Soren Kierkegaard, Jean Paul Sarte):

+ Về vấn đề tồn tại. Chủ nghĩa hiện sinh không phủ nhận tồn tại khách quan của thế giới, nhưng theo họ tồn tại tự nó không là cái gì cả. Sartre chia tồn tại thành hai miền: tồn tại trong nó và tồn tại cho nó.

+ Về quan hệ giữa hiện sinh và bản chất. Các nhà hiện sinh cho rằng hiện sinh có trước bản chất, hiện sinh là tính thứ nhất so với bản chất.

+ Sự trăn trở hay sự đau khổ cũng là một chủ đề của chủ nghĩa hiện sinh. Đó là trạng thái không thoải mái, lo sợ, khủng khiếp nói chung, không gắn một cách trực tiếp với một đối tượng cụ thể nào cả.

+ Sự phi lý của cuộc đời. Nó không thừa nhận chủ nghĩa duy lý trong triết học và khoa học, không thừa nhận sự giải thích sự vật, hiện tượng bằng lý luận, bằng khoa học. Nó không thừa nhận bất kỳ mối liên hệ khách quan nào, bất kỳ bản chất và quy luật khách quan nào.
+ Hư vô. Chủ nghĩa hiện sinh phủ nhận mọi bản chất, kết cấu. Con người hiện sinh không một bản chất, một kết cấu tri thức, một giá trị đạo đức, một mối quan hệ xã hội nào cả. Nói tóm lại, nó chỉ đơn thuần là một sự trống rỗng, hư vô.
+ Cái chết. Đối với con người hiện sinh, cái chết là vấn đề quan trọng nhất. Con người hiện sinh là con người luôn luôn sợ hãi trước cái chết, vì sự sống là sự tồn tại dẫn đến cái chết.
+ Sự tha hóa. Chủ nghĩa hiện sinh phát triển khái niệm tha hóa đến cực đoan, không thể chấp nhận được. Con người hiện sinh là những con người bị tha hóa, tách rời, trở thành xa lạ với tất cả: với thế giới đồ vật, với xã hội, trong lao động, trong quan hệ với người khác, kể cả trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa con cái với nhau, và kể cả sự tha hóa ngay cả trong tình yêu.
+ Tự do và trách nhiệm. Các nhà hiện sinh giải thích tự do một cách chủ quan: tự do là sự tự lựa chọn cái gì phù hợp với xúc cảm nội tâm, cái gì mà cá nhân coi là đúng đắn.
Sartre gắn liền tự do với trách nhiệm cá nhân. Người hiện sinh hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự lựa chọn và hành vi của mình. Sự tự do không bị quy định bởi bất kỳ cái gì khác ngoài trách nhiệm cá nhân.
b) Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa thực dụng (đại biểu Peirce, James, Dewey):
Nguyên tắc phương pháp luận căn bản của chủ nghĩa thực dụng là lấy kinh nghiệm, hiệu quả, công dụng làm tiêu chuẩn.
Do đó, họ rút ra kết luận: con người tuyệt đối tự do trong hoạt động của mình, họ có thể làm bất cứ việc gì họ muốn, bất cứ cái gì có lợi cho họ.
Theo chủ nghĩa thực dụng, những gì tồn tại đều là những yếu tố của kinh nghiệm. Chủ nghĩa thực dụng coi kinh nghiệm như là cái bao hàm trong nó cả vật chất và ý thức, cả khách quan và chủ quan.
Về nhận thức luận, chủ nghĩa thực dụng coi ý nghĩa của sự vật, của khái niệm không phải là cái gì có sẵn, vốn có của nó, mà chỉ biểu hiện ra trong quan hệ cụ thể, trong công dụng thực tế. Giá trị của tư tưởng hay lý luận không phải ở chỗ nó có phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan hay không, mà là ở chỗ nó có đem lại hiệu quả thực tế hay không.
Về tiêu chuẩn của chân lý, James cho rằng chân lý không phải là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, mà là mối liên hệ giữa các kinh nghiệm với nhau. Cái gì đem lại lợi ích và hiệu quả hữu dụng thì nó là chân lý, mà không cần xem nó có phù hợp với thực tế khách quan hay không. Chân lý theo quan niệm của chủ nghĩa thực dụng chỉ có tính chất tương đối, tùy theo từng người, từng hoàn cảnh, từng thời gian và địa điểm áp dụng khác nhau.

Câu 8: Thực chất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện, V.I.Lênin phát triển
Triết học Mác-Lênin là sự kế thừa có phê phán và chọn lọc những tư tưởng triết học của nhân loại trong quá trình lịch sử. Đồng thời sự ra đời của triết học Mác-Lênin là một bước ngoặt vĩ đại trong sự phát triển tư tưởng triết học của nhân loại. Triết học Mác có những cái mới về chất so với các hệ thống triết học trước đó:

+ C. Mác và Ph. Ăngghen phát triển chủ nghĩa duy vật lên hình thức cao của nó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phát triển phép biện chứng lên hình thức cao của nó là phép biện chứng duy vật.

Trước Mác, chủ nghĩa duy vật vẫn còn mang tính chất siêu hình, máy móc. Nó chưa đưa được quan điểm phát triển vào trong lý luận của nó; nó lấy quy luật cơ học để giải thích sự vận động của thế giới, dùng quy luật cơ học và quy luật sinh học để giải thích bản chất con người. Còn phép biện chứng trước Mác mà đỉnh cao của nó là phép biện chứng Hêghen thì lại là duy tâm, tức ông đã xuất phát từ quy luật vận động, phát triển của một ý niệm tuyệt đối nào đó có trước thế giới để giải thích tất cả những gì đang tồn tại. Cho nên phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, ngược đầu và đóng khung trong một một kết cấu tư biện, gượng gạo.

Trên cơ sở kế thừa có phê phán và chon lọc những thành tựu mà mà các nhà duy vật đã đạt được cũng như kế thừa hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng của Hêghen, C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật. Từ khi triết học Mác ra đời, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng được kết hợp với nhau thành một thể thống nhất.
+ Việc sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện quan trọng nhất của bước ngoặt cách mạng trong sự phát triển tư tưởng triết học của nhân loại.
Trước Mác, các nhà triết học, đều không tránh khỏi duy tâm khi giải thích các hiện tượng xã hội. Họ đều cho rằng tinh thần, tư tưởng (ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới, trời, thượng đế, hoặc ý thức chủ quan của con người) là yếu tố quyết định trong lịch sử. Họ không thấy được vai trò quyết định của hoạt động sản xuất vật chất, của đời sống vật chất.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào nghiên cứu đời sống xã hội. Triết học Mác coi xã hội như là một cơ thể sống, một cấu trúc phức tạp bao gồm những cá nhân, gia đình, giai cấp, dân tộc với vô số những mối quan hệ xã hội chằng chịt được hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn của họ. Triết học Mác coi sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội; vạch ra những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội không phụ thuộc ý muốn chủ quan của con người; lấy cơ sở hạ tầng để giải thích kiến trúc thượng tầng, lấy tồn tại xã hội để giải thích ý thức xã hội.
Chính vì thế, triết học Mác là chủ nghĩa duy vật cân đối, hoàn chỉnh và triệt để; nó bao quát cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
+ Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của triết học Mác-Lênin.

Triết học Mác - Lênin không chỉ giải thích thế giới mà vấn đề quan trọng là cải tạo thế giới. Trước Mác, người ta chưa xác lập được mối quan hệ gắn bó với nhau giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận nhiều khi chỉ là sản phẩm của tư duy thuần túy, chỉ là kết quả của sự suy lý tư biện của các nhà lý luận. Người ta chưa chỉ ra được một tiêu chuẩn khách quan để phân biệt cái đúng và cái sai trong lý luận. Lý luận càng cao siêu, càng xa rời thực tế thì càng được đánh giá cao.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, C. Mác và Ph. Ăngghen vạch ra một cách đầy đủ và chính xác vai trò của hoạt động thực tiễn với tính cách là hoạt động vật chất cải tạo tự nhiên và xã hội đối với quá trình nhận thức; khẳng định rằng thực tiễn là cơ sở, mục đích, động lực của nhận thức, tiêu chuẩn của chân lý. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của triết học Mác-Lênin.
+ Triết học Mác-Lênin có sự thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học.
Với sự ra đời của triết học Mác-Lênin, giai cấp vô sản và nhân dân lao động có một lý luận triết học khoa học để giải thích đúng đắn các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Triết học Mác-Lênin còn là vũ khí lý luận cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động để đấu tranh xóa bỏ áp bức, bất công, xây dựng xã hội không có giai cấp, không có người bóc lột người.
Những quan điểm cách mạng trong triết học Mác-Lênin, nhất là quan điểm về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản không phải là những hoài bão chủ quan của loài người, mà trái lại chúng có cơ sở khoa học vững chắc, dựa trên sự nghiên cứu nghiêm túc và lôgíc chặt chẽ của triết học và các khoa học xã hội.
+Triết học Mác đã đem lại một quan niệm đúng đắn về đối tượng của triết học.
Trước đây quan niệm coi triết học là khoa học bao trùm tất cả các khoa học hay coi triết học chỉ còn “công cụ” của khoa học hoặc của hoạt động thực tiễn.
Triết học Mác đã đưa ra một quan niệm đúng đắn trong việc xác định đối tượng và vai trò của triết học. Đối với triết học Mác, triết học không đồng nhất với các khoa học cụ thể, cũng không phải là “khoa học của các khoa học”, mà là học thuyết về những nguyên lý chung nhất, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Sau C. Mác và Ăngghen, triết học Mác được Lênin bổ sung và phát triển một cách sáng tạo trong tình hình mới. Lênin đã vận dụng sáng tạo học thuyết của Mác để giải quyết những vấn đề của cách mạng vô sản trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Câu 9: Bản chất, vai trò của phép duy vật biện chứng. Các nguyên tắc phương pháp luận của nó và sự vận dụng trong thực tiễn cách mạng XHCN ở Việt Nam.
TGQ duy vật ra đời và phát triển trong cuộc đấu tranh chống lại thế giới quan thần thoại, tôn giáo và thế giới quan triết học duy tâm
1. Bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng
a) Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học
- Khẳng định vật chất có trước, quyết định ý thức. Nhưng ý thức có vai trò vô cùng to lớn. Quan hệ vật chất và ý thức không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ tác động qua lại lẫn nhau trên cơ sở hoạt động thực tiễn.- Khẳng định khả năng nhận thức thế giới của con người
b) Thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật (CNDV) và phép biện chứng (PBC)
Thiếu sót của CNDV trước Mác là phương pháp siêu hình, máy móc. Trong khi đó, PBC lại được các nhà duy tâm phát triển.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã đưa PBC ra khỏi triết học duy tâm và trở về với quan điểm duy vật, tạo nên sự thống nhất giữa CNDV và PBC.
c) Chủ nghĩa duy vật triệt để
Trước Mác, quan điểm duy tâm thống trị trong lĩnh vực xã hội. Ngay những nhà triết học triết học duy vật, vô thần như Phoiơbăc cũng không thoát khỏi quan điểm duy tâm khi bước vào nghiên cứu xã hội. Đối với quan điểm duy tâm khách quan về lịch sử thì xã hội do một ý niệm có trước thế giới hoặc do Thượng đế quyết định. Còn đối với quan điểm duy tâm chủ quan thì sự phát triển của xã hội do ý chí của vĩ nhân, lãnh tụ quyết định.
Triết học Mác đã đưa quan niệm duy vật vào lĩnh vực xã hội, sáng lập ra CNDV lịch sử. CNDV lịch sử là một cống hiến vĩ đại của C. Mác. Việc vận dụng quan điểm duy vật vào trong lĩnh vực xã hội đã tạo ra một CNDV triệt để.
a) Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
- Lý luận phải xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm mục đích
- Lý luận phải được kiểm tra trong thực tiễn. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
- Thực tiễn phải được hướng dẫn bằng lý luận khoa học
Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Thực tiễn mà không được lý luận hướng dẫn thành thành thực tiễn mù quáng.
b) Tính cách mạng và tính sáng tạo
- Triết học Mác không dừng lại ở nhận thức thế giới, mà vấn đề quan trọng là cải tạo thế giới
- Lần đầu tiên trong lịch sử, giai cấp vô sản và nhân dân lao động có thế giới quan khoa học của mình. Triết học Mác trở thành vũ khí lý luận của giai cấp vô sản và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
- Tính đảng và tính giai cấp của CNDV mácxít không mâu thuẫn với tính khoa học của nó. Sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học của chủ nghĩa duy vật mácxít có cơ sở là sự thống nhất giữa lợi ích của giai cấp vô sản với quy luật khách quan của tiến trình lịch sử.
- Ngoài ra, CNDV mácxít còn có tính sáng tạo. Nó không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động. Nó luôn luôn được đổi mới và phát triển cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Nó phải được vận dụng phù hợp với tình hình cụ thể của mỗi thời kỳ và mỗi nước. Nó là hệ thống mở sẳn sàng tiếp nhận những phát mình mới của khoa học.
2. Các nguyên tắc phương pháp luận của nó và sự vận dụng trong thực tiễn cách mạng XHCN ở Việt Nam.
a) Các nguyên tắc phương pháp luận
- Nguyên tắc tính khách quan của sự xem xét.
- Thế giới quan DVBC là cơ sở lý luận của nguyên tắc (quan điểm) tính khách quan của sự xem xét (quan điểm khách quan).
- Nguyên tắc này đòi hỏi trong nhận thức sự vật phải xuất phát từ chính bản thân sự vật, xem xét sự vật đúng như nó tồn tại trong thực tế.
- Cải tạo sự vật phải xuất phát từ qui luật khách quan của sự tồn tại và phát triển của sự vật.
- Không được lấy tình cảm, ý chí chủ quan làm điểm xuất phát trong việc xem xét và cải tạo sự vật.
- Phải tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan.
- Phát huy tính năng động chủ quan, chống chủ nghĩa duy ý chí.
- Chống thái độ thụ động, ỉ lại, bảo thủ, trì trệ.
- Phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi cá nhân cũng như của toàn xã hội trong việc nhận thức và hành động.
- Kiên quyết khắc phục và ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí.
b) Vận dụng vào cách mạng XHCN ơ Việt Nam
- Tôn trọng các quy luật khách quan và điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Na
- Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước
- Coi trọng công tác giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục tri thức khoa học, kỹ thuật, bồi dưỡng nhiệt tình cách mạng cho nhân dân.
- Coi trọng lợi ích, kết hợp hài hòa các lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi tập thể và lợi ích xã hội; lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị và lợi ích tinh thần.
- Chống những hiện tượng tiêu cực trong xã hội.

Câu 10: Những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật và ý nghĩa phương pháp luận của nó
1. Bản chất của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp. Hệ thống các quy luật, phạm trù của nó không chỉ phản ánh đúng đắn thế giới khách quan mà còn chỉ ra những cách thức để định hướng cho con người trong nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
Phép biện chứng duy vật bao gồm 2 nguyên lý cơ bản, những phạm trù và những nguyên lý cơ bản, vừa là lý luận duy vật biện chứng, vừa là lý luận nhận thức khoa học, vừa là logic của chủ nghĩa Mác.
- Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật :
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: khái quát bức tranh toàn cảnh những mối liên hệ của thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy). PBCDV khẳng định rằng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại một cách riêng lẻ, cô lập tuyệt đối, mà trái lại chúng tồn tại trong sự liên hệ, ràng buộc, phụ thuộc, tác động, chuyển hóa lẫn nhau.
* Ý nghĩa :
+ Phải xem xét toàn diện các mối liên hệ
+ Trong tổng số các mối liên hệ phải rút ra được những mối liên hệ bản chất, chủ yếu để thấu hiểu bản chất của sự vật.
+ Từ bản chất của sự vật quay lại hiểu rõ toàn bộ sự vật trên cơ sở liên kết các mối liên hệ bản chất, chủ yếu với tất cả các mối liên hệ khác của sự vật để đảm bảo tính đồng bộ khi giải quyết mọi vấn đề trong đời sống. Quan điểm toàn diện đối lập với mọi suy nghĩ và hành động phiến diện, chiết trung, siêu hình.

Nguyên lý về phát triển: phản ánh đặc trưng biện chứng phổ quát nhất của thế giới. Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
PBCDV khẳng định rằng mọi lĩnh vực trong thế giới (vô cơ và hữu cơ; tự nhiên, xã hội và tư duy) đều nằm trong quá trình phát triển không ngừng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động, biến đổi không ngừng và về phương diện bản chất của mọi sự vận động, biến đổi của thế giới có xu hướng phát triển.
Phát triển được coi là khuynh hướng chung, là khuynh hướng chủ đạo của thế giới.
* Ý nghĩa :
Yêu cầu của nguyên tắc này đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự vận động, biến đổi và phát triển của nó, phải tư duy năng động, linh hoạt, mềm dẻo, phải nhận thức được cái mới và ủng hộ cái mới. Phát triển không loại trừ sự thụt lùi, tức sự thoái hóa, sự diệt vong của cái cũ, cái lạc hậu, cái lỗi thời. Thậm chí cái mới cũng phải trải qua những thất bại tạm thời. Tuy nhiên, thụt lùi là khuynh hướng không chủ đạo, chẳng những không ngăn cản sự phát triển, mà trái lại là tiền đề, là điều kiện cho sự phát triển
- Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật: 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận chỉ đạo mọi hoạt động của con người để thực hiện quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử - cụ thể về phương diện vạch ra nguồn gốc, động lực, cách thức và xu hướng phát triển tiến lên của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Đó là 3 quy luật:
+ Quy luật đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập: còn được gọi là quy luật mâu thuẫn. Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng, Nó vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển, phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật. Từ đó, phải vận dụng nguyên tắc mâu thuẫn mà yêu cầu cơ bản của nó là phải nhận thức đúng đắn mâu thuẫn của sự vật, trước hết là mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu, phải phân tích mâu thuẫn và quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn. Đấu tranh là phương thức giải quyết mâu thuẫn. Tuy nhiên, hình thức đấu tranh rất đa dạng. linh hoạt, tuỳ thuộc mâu thuẫn cụ thể và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
+ Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn tới những biến đổi về chất và ngược lại: gọi là quy luật lượng - chất. Quy luật này phản ánh cách thức, cơ chế của quá trình phát triển, là cơ sở phương pháp luận chung để nhận thức và thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật với 3 yêu cầu cơ bản là:
> Thường xuyên và tăng cường tích luỹ về lượng để tạo điều kiện cho sự thay đổi về chất. Chống chủ nghĩa duy ý chí muốn đốt cháy giai đoạn.
> Khi lượng được tích luỹ đến giới hạn độ, phải mạnh dạn thực hiện bước nhảy vọt cách mạng, chống thái độ bảo thủ, trì trệ.
> Vận dụng linh hoạt các hình thức nhảy vọt để đẩy nhanh quá trình phát triển.
+ Quy luật phủ định của phủ định: Quy luật này khái quát khuynh hướng phát triển tiến lên theo hình thức xoáy ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển.
Đó là cơ sở phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng, chỉ đạo mọi phương pháp suy nghĩ và hành động của con người. Phủ định biện chứng đòi hỏi phải tôn trọng tính kế thừa, nhưng kế thừa phải có chọn lọc, cải tạo, phê phán, chống kế thừa nguyên xi, máy móc và phủ định sạch trơn, chủ nghĩa hư vô với quá khứ. Nguyên tắc phủ định biện chứng trang bị phương pháp khoa học để tiếp cận lịch sử và tiên đoán, dự kiến những hình thái cơ bản của tương lai.
- Các cặp phạm trù không cơ bản

Bên cạnh 3 quy luật cơ bản, nội dung của phép biện chứng duy vật còn bao gồm các cặp phạm trù không cơ bản:
+ cặp phạm trù cái riêng - cái chung
+ tất nhiên - ngẫu nhiên
+ nguyên nhân - kết quả
+ bản chất - hiện tượng
+ khả năng - hiện thực
+ nội dung - hình thức.

Tóm lại, mỗi nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng. Vì vậy, chúng phải được vận dụng tổng hợp trong nhận thức khoa học thực tiễn cách mạng.
2. Ý nghĩa của phương pháp luận của phép biện chứng duy vật
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển của PBCDV là cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử-cụ thể và nguyên tắc phát triển.
a) Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng với tất cả các mặt, các mối liên hệ; đồng thời phải đánh giá đúng vai trò, vị trí của từng mặt, từng mối liên hệ; nắm được mối liên hệ chủ yếu có vai trò quyết định.
Sự vận dụng quan điểm toàn diện trong sự nghiệp cách mạng:
- Trong Cách mạng dân tộc dân chủ: Đảng ta vận dụng quan điểm toàn diện trong phân tích mâu thuẫn xã hội, đánh giá so sánh lực lượng giữa ta với địch, tạo ra và sử dụng sức mạnh tổng hợp.
- Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta tiến hành đổi mới toàn diện, triệt để; đồng thời phải xác định khâu then chốt. Nắm vững mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị và đổi mới tư duy.
Đối lập với nguyên tắc toàn diện của PBC, quan điểm siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng một cách phiến diện. Nó không xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng; hoặc xem mặt này tách rời mặt kia, sự vật này tách rời sự vật khác.
Chủ nghĩa chiết trung thì kết hợp các mặt một cách vô nguyên tắc, kết hợp những mặt vốn không có mối liên hệ với nhau hoặc không thể dung hợp được với nhau. Thuật nguỵ biện thì cường điệu một mặt, một mối liên hệ; hoặc lấy mặt thứ yếu làm mặt chủ yếu.
b) Nguyên tắc lịch sử-cụ thể trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc lịch sử-cụ thể đòi hỏi phải xem xét sự vật hiện tượng trong quá trình vận động phát triển: nó ra đời trong điều kiện như thế nào? trải qua những giai đoạn phát triển như thế nào? mỗi giai đoạn có tính tất yếu và đặc điểm như thế nào?
c) Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi khi xem xét sự vật, hiện tượng phải nhìn thấy khuynh hướng biến đổi trong tương lai của chúng: cái cũ, cái lạc hậu sẽ mất đi; cái mới, cái tiến bộ sẻ ra đời thay thế cái cũ, cái lạc hậu.

Câu 11:Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn (Khái niệm thực tiễn và lý luận, nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn) và ý nghĩa phương pháp luận của nó

A- Khái niệm thực tiễn và lý luận:
Thực tiễn được định nghĩa là những hoạt động vật chất có mục đích, có tính lịch sử - XH của con người nhằm biến đổi giới tự nhiên và xã hội. Do vậy, thực tiễn không phải là toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất chứ không phải là hoạt động tinh thần hay còn gọi là hoạt động lý luận.
Hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể (tức là con người) và khách thể (tức là giới tự nhiên), là dạng hoạt động vật chất trong đó chủ thể chủ động làm biến đổi khách thể. Trong hoạt động thực tiễn, con người phải sử dụng các phương tiện, công cụ vật chất cũng như sức mạnh vật chất của mình để tác động vào tự nhiên, XH nhằm cải tạo, làm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của mình. Vì vậy, có thể nói thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản nhất của con người và XH, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới.
Hoạt động thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội vì nội dung, phương pháp, phương tiện cũng như phạm vi ảnh hưởng của nó phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử nhất định. Tuy trình độ và các hình thức của hoạt động thực tiễn có thay đổi qua các thời kỳ lịch sử khác nhau của XH, nhưng thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của XH loài người. Thực tiễn cũng có quá trình vận động và phát triển của nó, trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên, trình độ làm chủ XH của con người.
Hoạt động thực tiễn được thể hiện qua ba hình thức cơ bản sau đây:
Ø Hình thức cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là hình thức nguyên thuỷ nhất và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của XH loài người, quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn.
Ø Hình thức cơ bản thứ hai của thực tiễn là hoạt động CT - XH nhằm cải tạo, biến đổi XH, phát triển các quan hệ XH, chế độ XH. Đây là hình thức hoạt động thực tiễn cao nhất.
Ø Với sự ra đời và phát triển của khoa học làm xuất hiện hình thức cơ bản thứ ba của thực tiễn - hoạt động thực nghiệm khoa học. Đây là hình thức hoạt động thực tiễn đặc biệt nhằm mục đích phục vụ nghiên cứu khoa học và kiểm tra lý thuyết khoa học. Hình thức hoạt động này ngày càng trở nên quan trọng do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại.
Lý luận được hiểu là hệ thống những tri thức phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới khách quan. Lý luận được hiểu theo một cách khác là hệ thống hoá các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật; trong đó quy luật là cái cốt lõi, là sản phẩm của hoạt động nhận thức của con người.
Khác với các quan điểm duy tâm, tôn giáo Triết học Mác-Lênin khẳng định lý luận là kết quả của quá trình nhận thức. Quá trình nhận thức đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động ) là giai đoạn đầu, trình độ thấp của quá trình nhận thức, bao gồm 3 hình thức cơ bản: cảm giác, tri giác và biểu tượng. Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) là giai đoạn cao, trình độ cao của quá trình nhận thức, bao gồm 3 hình thức cơ bản là khái niệm, phán đoán và suy luận. Như vậy lý luận là kết quả của quá trình phát triển cao của nhận thức, là trình độ cao của nhận thức.
B- Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn là hai dạng hoạt động của con người. Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn mà trong mối liên hệ chặt chẽ với thực tiễn. Hai hoạt động này thống nhất không tách rời nhau, gắn bó xâm nhập, làm cơ sở, tiền đề cho nhau phát triển. Giữa thực tiễn và lý luận có mối liên hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, và trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định.
Ø Lý luận là kim chỉ nam cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lý luận xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn bởi vì chỉ có thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý để kiểm nghiệm lại lý luận đúng hay sai. Nếu lý luận xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu. Tuy nhiên tự bản thân lý luận luôn luôn phải đổi mới để theo kịp sự phát triển của thực tiễn để khỏi phải lạc hậu, lỗi thời và phải làm vai trò hướng dẫn chỉ đạo và thúc đẩy hoạt động thực tiễn bởi vì chỉ có một lý luận khoa học, cách mạng thì hoạt động thực tiễn mới đạt hiệu quả cao được. Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người.
Ø Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc, động lực của lý luận. Bởi vì nó là nền tảng, là điểm xuất phát, là nơi diễn ra hoạt động lý luận. Mặt khác hoạt động thực tiễn thúc đẩy cho hoạt động lý luận con người và thông qua nó con người phát triển bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Thực tiễn còn là mục đích của nhận thức, của lý luận bởi vì hoạt động lý luận không phải chỉ để lý luận mà là cải tạo tự nhiên, xã hội nhằm phục vụ cho nhu cầu con người. Thực tiễn phải được chỉ đạo, hướng dẫn bởi lý luận, khoa học, cách mạng. Nếu thực tiễn không có lý luận dẫn đường thì thực tiễn sẽ trở nên mù quáng. Còn nếu thực tiễn được chỉ đạo bởi lý luận sai lầm và phản cách mạng thì hậu quả sẽ khó lường.
C- Ý nghĩa của phương pháp luận trong thực tiễn nước ta:
a) Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như các tri thức khoa học mà nhân loại đã đạt được vào điều kiện cụ thể của nước ta
- Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Bởi vì, chủ nghĩa Mác-Lênin là lý luận cách mạng và khoa học, vạch ra quy luật và xu thế phát triển tất yếu khách quan của xã hội loài người và con đường đấu tranh để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta; là hệ thống quan điểm cơ bản của đường lối cách mạng Việt Nam; là sự kế thừa và phát huy những tinh hoa tư tưởng của dân tộc và nhân loại; là đạo đức cách mạng của mọi người.
- Nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay.
- Vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học của nhân loại trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
b) Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của Việt Nam và quốc tế để tiếp tục hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội.
- Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để hoàn thiện con đường đi lên CNXH.
c) Trong giáo dục, đào tạo phải kết hợp lý luận với thực tiễn, học với hành
- Giáo dục – đào tạo phải đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội
- Kết hợp lý luận với thực tiễn, học với hành.
d) Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Bệnh giáo điều: Bệnh giáo điều là khuynh hướng cường điệu lý luận, coi thường thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn.
- Chỉ căn cứ trên câu chữ trong sách vở, không nắm bắt được bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Áp dụng lý luận một cách cứng nhắc không tính đến điều kiện cụ thể
- Áp dụng kinh nghiệm người khác một cách rập khuôn máy móc
Tác hại của bệnh giáo điều là biến chủ nghĩa xã hội khoa học thành những công thức xơ cứng, phiến diện, cản trở quá trình đổi mới thường xuyên CNXH hiện thực.
Bệnh kinh nghiệm:Là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi thường lý luận.
Người mắc bệnh kinh nghiệm thường thỏa mãn với kinh nghiệm sẵn có của bản thân, không chịu khó học tập lý luận, không tiếp thu và áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong công tác, xem thường gới trí thức, thiếu nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ.
Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm và giáo điều là sự yếu kém về lý luận và thiếu hiểu biết thực tiễn, chủ nghĩa cá nhân.
Để khắc phục bênh giáo điều và bệnh kinh nghiệm, cần phải tăng cường nghiên cứu, đổi mới công tác lý luận, tổng kết thực tiễn, từ bỏ lối nghiên cứu kinh viện, gắn lý luận với thực tiễn, tăng cường giáo dục nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên

Câu 12: Khái niệm cấu trúc của hình thái KT - XH. Phép biện chứng của sự vận động, phát triển các hình thái KT-XH. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Trả lời :
1. Khái niệm cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội
Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng và nghiên cứu đời sống XH, Mác đã nêu lên học thuyết hình thái KT-XH, chỉ ra sự phát triển của XH là quá trình lịch sử tự nhiên của sự thay thế các hình thái KT-XH từ thấp đến cao. Đối lập với những quan điểm duy tâm và siêu hình, Mác cho rằng lịch sử XH là do con người tạo ra nhưng dưới ảnh hưởng sự phát triển của LLSX. Vì vậy, không phải ý thức con người mà chính là hoạt động sản xuất vật chất của họ mới làm biến đổi lịch sử
Quan niệm của CNDV lịch sử xem xét XH với tính cách là một hệ thống bao gồm trong nó 4 lĩnh vực cơ bản:
§ Lĩnh vực kinh tế của đời sống XH, tức là QHSX, quan hệ kinh tế giữ vai trò ban đầu, cơ bản và quyết định tất cả các quan hệ khác.
§ Lĩnh vực XH, tức là các quan hệ gia đình, tầng lớp XH, giai cấp, dân tộc, trong đó quan hệ giai cấp đóng vai trò chi phối.
§ Lĩnh vực chính trị của đời sống XH, tức là các tổ chức và thiết chế quyền lực, hệ thống luật pháp và tư tưởng chính trị.
§ Lĩnh vực tinh thần của đời sống XH.

Tóm lại, hình thái KT-XH là phạm trù của CNDV lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển nhất định trong lịch sử với một kiểu QHSX đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với LLSX ở một trình độ phát triển nhất định và với một KTTT tương ứng dựng bên trên những QHSX đó. Một hình thái KT-XH có 3 mặt: LLSX, QHSX (CSHT) và KTTT. Mỗi mặt của hình thái KT-XH có mối liên hệ bản chất, tất yếu, ổn định.
2. Phép biện chứng trong sự vận động, phát triển của các hình thái KT-XH:
§ Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động (là những người có kỹ năng, kinh nghiệm, tri thức nhất định, chế tạo và sử dụng công cụ lao động, tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất) với tư liệu sản xuất (bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động).
Quan hệ sản xuất bao gồm 3 mặt: quan hệ về chiếm hữu tư liệu sản xuất, quan hệ về quản lý và phân công lao động và quan hệ về phân phối sản phẩm. Trong 3 mặt trên thì quan hệ về chiếm hữu tư liệu sản xuất giữa vai trò quyết định.
LLSX và QHSX tồn tại không tách rời nhau, thống nhất biện chứng với nhau trong phương thức sản xuất nhất định. Trong đó LLSX quyết định QHSX, QHSX phải phù hợp với trình độ của LLSX. Khi LLSX thay đổi về chất thì QHSXcũng thay đổi theo. Ngược lại QHSX cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì sẽ thúc đẩy sự phát triển của LLSX và ngược lại nếu QHSX không phù hợp nó sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.
§ Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (CSHT) và kiến trúc thượng tầng (KTTT):
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội có thể có nhiều kiểu QHSX: QHSX thống trị, QHSX tàn dư, QHSX mầm mống, trong đó QHSX thống trị giữ vai trò quyết định
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những hiện tượng xã hội hình thành và phát triển bên trên cơ sở hạ tầng, bao gồm những tư tưởng xã hội, những quan hệ và thiết chế tương ứng với những tư tưởng đó.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cấu thành của hình thái KT-XH, chúng thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó CSHT quyết định KTTT, song KTTT cũng có tác động tích cực trở lại CSHT. CSHT quyết định KTTT. CSHT như thế nào thì KTTT như thế ấy; khi CSHT có những biến đổi căn bản thì KTTT sớm muộn cũng biến đổi theo. KTTT có sự tác động trở lại CSHT. KTTT tiến bộ có vai trò thúc đẩy sự phát triển của đời sống kinh tế; còn ngược lại, KTTT lạc hậu thì kìm hãm sự phát triển của kinh tế.
3. Sự vận dụng của Đảng ta trong con đường đi lên chủ nghĩa xã hội:

§ Vấn đề quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN:
Lịch sử đã chứng minh không phải bất cứ nước nào cũng phải tuần tự trải qua các hình thái KT-XH đã từng có trong lịch sử. Việc bỏ qua một hình thái KT-XH nào đó do những yếu tố bên trong quyết định, song đồng thời còn tuỳ thuộc ở sự tác động của từng nhân tố bên ngoài. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo ra cho các nước chậm phát triển thời cơ mới nhưng cũng có nhiều thách thức mới trên con đường lựa chọn sự phát triển của mình. Ở nước ta cũng có những tiền đề và điều kiện cho phép chúng ta lựa chọn con đường XHCN, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để quá độ lên CNXH nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, làm cho đất nước ngày càng phồn vinh. Đảng ta chỉ rõ: nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập thống trị của quan hệ sản xuất TBCN và KTT TBCN. Có nghĩa là không để hình thành giai cấp tư sản và sự thống trị của nó đối với đời sống chính trị, kinh tế xã hội. Tuy nhiên quá trình này phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
Một số nguyên tắc phương pháp luận trong việc xây dựng hình thái KT-XH XHCN ở nước ta:
Đảng ta đã đề ra những quan điểm phương pháp luận xuất phát để xây dựng CNXH:
+ Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (nền kinh tế thị trường định hướng XHCN).
+ Phát triển lực lượng sản xuất bằng việc thực hiện CNH, HĐH đi đôi với hoàn thiện QHSX xã hội chủ nghĩa với sự đa dạng của các hình thức sở hữu và phân phối trong đó sở hữu công cộng và kinh tế nhà nước từng bước giữ vai trò chủ đạo.
+ Thực hiện cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa. Phát huy nhân tố con người. Coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực trong công cuộc xây dựng xã hội mới.

Câu 13: Quan điểm macxit về giai cấp, đấu tranh giai cấp và quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại. Sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Quan điểm macxit về giai cấp, đấu tranh giai cấp và quan hệ giữa giai cấp và dân tộc
Về giai cấp:
Định nghĩa: “Người ta gọi giai cấp là những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong hệ thống sản xuất XH nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động XH Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác
Định nghĩa trên đã cho thấy những tiêu chuẩn cụ thể để xác định các giai cấp khác nhau, đồng thời cũng xác định rõ trong tất cả các XH có giai cấp đối kháng, quan hệ giữa các giai cấp cơ bản là quan hệ giữa bóc lột và bị bóc lột.
Mác và Ănghen cho rằng từ khi LLSX phát triển, năng suất lao động tăng lên dẫn đến có sự dư thừa sản phẩm XH, và từ đó xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên nhân quyết định trực tiếp sự ra đời giai cấp.
- Về đấu tranh giai cấp:
ĐTGC là đấu tranh giữa những giai cấp có lợi ích căn bản (lợi ích kinh tế) đối lập nhau, không thể điều hòa được, chủ yếu là đấu tranh của đông đảo quần chúng lao động bị bóc lột, bị áp bức, bị thống trị chống lại giai cấp bóc lột, áp bức, thống trị.
Đấu tranh giai cấp là quy luật chung của mọi XH có giai cấp, là động lực cơ bản của sự phát triển XH có các giai cấp đối kháng. Đấu tranh giai cấp xảy ra khi có mâu thuẫn giữa LLSX mới với QHSX lôi thời, từ đó thúc đẩy sự phát triển của LLSX. ĐTGC dẫn đến đỉnh cao là CMXH, xóa bỏ QHSX cũ, CSKT cũ, KTTT cũ đưa xã hội phát triển lên một hình thái kinh tế-xã hội mới cao hơn đó là XH không còn giai cấp.
Đấu tranh GCVS nhằm thủ tiêu chế độ tư hữu và thiết lập chế độ công hữu về những TLSX chủ yếu. Cuộc đấu tranh này diễn ra dưới 3 hình thức: đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu tranh tư tưởng
- Quan hệ giữa giai cấp và dân tộc:
Dân tộc: Là một cộng đồng người có chung một lãnh thổ, chung một ngôn ngữ, chung một nền văn hoá, chung một hoàn cảnh.
Quan hệ giữa giai cấp và dân tộc: Một dân tộc bao giờ cũng gồm các giai cấp khác nhau. Giai cấp giữ vai trò quyết định sự hình thành dân tộc, xu hướng phát triển của dân tộc, bản chất XH của dân tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc. Bản chất XH của một dân tộc do PTSX thống trị và giai cấp đại diện cho PTSX ấy
Quan hệ giữa giai cấp và nhân loại:
Nhân loại: là cộng đồng người sống trên trái đất. Lợi ích chung của nhân loại là lợi ích về sự tồn tại và sự phát triển của cộng đồng nhân loại. Tuy nhiên trong XH có giai cấp lợi ích nhân loại không tách rời lợi ích giai cấp. Chỉ có lợi ích của giai cấp tiến bộ (GCVS) phù hợp với lợi ích nhân loại:
Sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay:
- Phát huy khổi đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công- nông- trí thức dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN.
- Mở rộng quan hệ quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia
- Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập quốc tế .
- CNH, HĐH xóa bỏ tình trạng nước nghèo, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta thành một nước công nghiệp hiện đại.
- Đấu tranh làm thất bại âm mưu diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững chính quyền cách mạng, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự xã hội.
- Giữ vững định hướng XHCN. Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Chống khuynh hướng tự phát TBCN.
- Từng bước hạn chế đi đến xóa bỏ tình trạng người bóc lột người; xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Xóa bỏ mọi tàn tích về tư tưởng và lối sống của g/c bóc lột. Khắc phục những hiện tượng tiêu cực. Phát triển con người toàn diện. Xây dựng lối sống tốt đẹp, lành mạnh. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Câu 14: Quan điểm mácxít về bản chất nhà nước, nguồn gốc, chức năng của nhà nước. Đặc điểm của nhà nước XHCN. Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Trả lời :
a) Bản chất nhà nước
- Nhà nước là công cụ chuyên chính của giai cấp thống trị nhằm bảo vệ địa vị và lợi ích (trước hết là lợi ích kinh tế) của giai cấp đó trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
b) Nguồn gốc của nhà nước
Nhà nước là một phạm trù lịch sử ra đời do hai nguyên nhân:
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự thay thế chế độ công hữu bằng chế độ tư hữu
- Sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng. Xã hội cần phải có một tổ chức bạo lực để giữ cho cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có quyền lợi kinh tế đối lập nhau nằm “trong vòng trật tự”.
Nhà nước do giai cấp có thế lực mạnh nhất trong xã hội, tức giai cấp thống trị về kinh tế lập ra, trước hết là để bảo vệ lợi ích và địa vị thống trị của giai cấp đó.
c) Chức năng cơ bản của nhà nước
* Chức năng thống trị chính trị của giai cấp : Nhà nước là một bộ máy cai trị của một giai cấp, nó sẵn sàng sử dụng bạo lực để bảo vệ lợi ích và sự thống trị của giai cấp đó.
* Chức năng xã hội: thực hiện một số nhiệm vụ vì nhu cầu và lợi ích chung của cộng đồng dân cư trong sự quản lý của nhà nước.
Chức năng thống trị giai cấp là chức năng chính, quy định nội dung, phương hướng, mức độ thực hiện chức năng xã hội của nhà nước.
+ Chức năng đối nội: thực hiện những nhiệm vụ trong phạm vi lãnh thổ quốc gia nhằm bảo vệ sự thống trị của giai cấp thống trị, quản lý xã hội.
+ Chức năng đối ngoại: thực hiện những nhiệm vụ trong quan hệ với các nhà nước khác nhằm bảo vệ độc lập quốc gia hoặc mở rộng sự thống trị đến các dân tộc khác.
Chức năng đối nội giữ vai trò quyết định chức năng đối ngoại; chức năng đối ngoại nhằm mục đích phục vụ chức năng đối nội.
d) Nhà nước XHCN có những đặc điểm :
+ Nhà nước XHCN là tổ chức chính trị thông qua đó nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ xã hội của mình. Nhà nước XHCN đại diện cho lợi ích của toàn thể nhân dân lao động.
+ Nhà nước xã hội chủ nghĩa có hai chức năng cơ bản: Chức năng tổ chức xây dựng là chức năng cơ bản nhất.
- Sử dụng công cụ bạo lực để bảo vệ độc lập, của Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội.
- Tổ chức xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới.
+ Nhà nước XHCN thực hiện sự bình đẳng chủng tộc và sự hợp tác bình đẳng cùng có lợi giữa các dân tộc trên thế giới.
+ Nhà nước XHCN do giai cấp vô sản lãnh đạo mà đội tiên phong của nó là Đảng cộng sản.
e) Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
+ Bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
- Là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
- Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền hành pháp, lập pháp, tư pháp.
- Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.
+ Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
- Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý Nhà nước.
- Nâng cao chất lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức Quốc hội
- Tiếp tục cải cách nền hành chính nhà nước
- Cải cách tư pháp
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước

Câu 15: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vấn đề xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Trả lời :
Có nhiều quan điểm trước Mác về con người như quan điểm tôn giáo cho rằng con người do Thượng đế tạo ra hay theo chủ nghĩa duy tâm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối ngay cả các quan điểm duy vật trước Mác cũng chỉ thấy mặt sinh học của con người mà chưa thấy vai trò quyết định của mặt xã hội và hoạt động thực tiễn của con người.
Trên quan điểm duy vật triệt để Mác đi đến bản chất con người là thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội. Mặt sinh vật bao gồm cơ thể , mối quan hệ giữa cơ thể với giới tự nhiên chung quanh, cùng những nhu cầu sinh vật và những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể con người. Mặt xã hội bao gồm “tổng hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt động xã hội, đời sống tinh thần của con người.

Hai mặt sinh vật và xã hội ở con người hợp thành một thể thống nhất có quan hệ khắng khít không thể tách rời nhau, trong đó mặt sinh học là nền tảng vật chất tự nhiên của con người, nhưng không phải là yếu tố quyết định bản chất của con người; mặt xã hội mới là mặt giữ vai trò quyết định bản chất của con người.

Như vậy chúng ta thấy rằng con người vượt trên con vật qua 3 phương diện : quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất bởi vì chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó con người mới bộc lộ bản chất xã hội của mình. Tóm lại “Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”.
Trên cơ sở tiếp thu quan điểm về con người của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng nhân văn của cách mạng Pháp, tư tưởng từ bi của Phật giáo, nhân văn của Nho giáo và kế thừa truyền thống của dân tộc Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm: con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng dân tộc với mục tiêu là phát triển con người toàn diện.

Cách mạng Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với con người Việt Nam
- Vấn đề xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất của nhân dân lao động, nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.
- Vấn đề phát triển thể chất, sức khỏe của con người.
- Vấn đề nâng cao trình độ khoa học-kỹ thuật
- Vấn đề văn hóa, đạo đức; chống những hiện tượng tiêu cực phát sinh trong xã hội.
+ Xây dựng con người đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay
- Phấn đấu cho hạnh phúc của con người trong một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Mục đích của chủ nghĩa xã hội là sự phát triển tự do và hạnh phúc của con người và chính sự phát triển tự do của cá nhân là điều kiện cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên việc mưu cầu hạnh phúc cho con người không thể tách rời việc phấn đấu xây dựng một xã hội phát triển về kinh tế, công bằng, dân chủ và văn minh. Kiên quyết chống những hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội.
- Đào tạo những con người của xã hội văn minh. Con người mới là những con người có đủ trình độ và năng lực làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân. Do đó, giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu đào tạo ra những con người mới vừa hồng, vừa chuyên, nghĩa là vừa có đủ trình độ và năng lực sáng tạo và làm chủ khoa học và công nghệ, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, vừa có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức để có thể giữ vững thành quả cách mạng và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đưa nước ta tiến kịp trình độ của văn minh nhân loại.
- Phát triển con người một cách toàn diện. Để có những con người có đủ trình độ và năng lực làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân, có cuộc sống gia đình hạnh phúc thì cần phải phát triển con người một cách toàn diện, cả về thể lực và trí lực, cả về năng lực chuyên môn và phẩm chất chính trị, đạo đức, cả về phẩm chất cá nhân và quan hệ xã hội.